Thầy Của Lưu Bị Là Ai

Thầy Của Lưu Bị Là Ai

Hòa thượng Thích Pháp Hòa nổi tiếng bởi những bài giảng kinh Phật dễ hiểu, gần gũi và đi vào lòng người. Ngài là một trong số ít những nhà sư đang ở nước ngoài, nhưng rất được bà con trong nước yêu mến, kính trọng. Bài viết dưới đây phần nào sẽ giúp bạn hiểu thêm về cuộc đời của ngài.

Hòa thượng Thích Pháp Hòa nổi tiếng bởi những bài giảng kinh Phật dễ hiểu, gần gũi và đi vào lòng người. Ngài là một trong số ít những nhà sư đang ở nước ngoài, nhưng rất được bà con trong nước yêu mến, kính trọng. Bài viết dưới đây phần nào sẽ giúp bạn hiểu thêm về cuộc đời của ngài.

Pháp thoại “Sanh tử là lẽ đương nhiên”

Pháp thoại “Sinh tử là lẽ đương nhiên” được chia sẻ vào ngày 21/6/2020 tại Tu viện Trúc Lâm. Qua bài thơ “Sanh tử lẽ đương nhiên” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy Thích Pháp Hòa đã giúp Phật tử hiểu được ý nghĩa của từng câu thơ.

Thời tiết “nhân duyên” vốn tại trời.

Mây núi nào không bay cạnh núi,

Gà gáy canh năm đánh thức người.

Theo thầy Thích Pháp Hòa, ý nghĩa của bài thơ đó là “trong đời sống ngày chuyện sinh tử là rất bình thường như mây bay trên núi, sóng vỗ ngoài khơi. Chúng ta có thắc mắc cỡ  nào thì nó vẫn chỉ gói gọn trong hai chữ sinh tử”. Thầy Pháp Hòa muốn Phật tử hiểu rõ quy luật sinh - tử để không chìm đắm trong luân hồi, khổ đau.

5 Bài thuyết pháp của thầy Thích Pháp Hòa

Bên cạnh việc chuyên tâm tu học, trau dồi thêm kiến thức về Phật Pháp, thầy Thích Pháp Hòa còn dành nhiều thời gian để đi tới nhiều nơi để thuyết giảng về Phật pháp cho các Phật tử. Nhiều bài giảng của thầy được thu hình, quay video và phát lại trên các phương tiện truyền thông để những người không có cơ hội nghe trực tiếp vẫn có nhân duyên để xem.

Các bài thuyết giảng của thầy Pháp Hòa luôn được lồng ghép với nhiều chủ đề khác nhau, liên quan tới tình yêu, tình cảm gia đình, lòng tư bi, sự thù hận,...Nhờ đó, giúp Phật tử có nhiều góc nhìn mới mẻ về cuộc sống; đồng thời giúp tư tưởng Phật giáo được thấm nhuần một cách bền bỉ. Dưới đây là 5 bài thuyết pháp của thầy Thích Pháp Hòa được các Phật tử gần xa yêu thích.

Quá trình tu hành và đạo nghiệp của hòa thượng Thích Pháp Hòa

Vào năm 1980, khi hòa thượng Thích Pháp Hòa được 6 tuổi, cha của thầy đã xa cách gia đình để sang Canada. Mãi đến khi thầy được 12 tuổi thì cả gia đình mới được bảo lãnh sang Canada để được sống cùng nhau.

Năm thầy Thích Pháp Hòa được 7 tuổi, thầy đã sớm có căn duyên đối với Phật pháp. Nhờ đó mà thầy sớm được xuất gia, có pháp danh riêng, thực hiện việc ăn chay và cúng dường Phật pháp.

Năm 15 tuổi, khi đã đủ hạnh nguyên, hòa thượng Thích Pháp Hòa chính thức xuất gia tu hành với Thượng tọa Thích Thiện Tâm (Hiện là hòa thượng viện chủ tu viện trúc lâm và tu viện Tây Thiên ở Canada).

Năm 1994, khi vừa tròn 20 tuổi, hòa thượng Thích Pháp Hòa đã được thọ ký tỳ kheo tại làng Mai trong Đài giới đàn Hương Tích của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Năm 1999, hòa thượng Thích Pháp Hòa vinh dự được Thiền sư Thích Nhất Hạnh truyền đăng với bài kệ pháp:

“Pháp đã trao lòng từ vàng thuở,

Hòa quang tiếp độ khắp quầng sân

Sen nở rạng ngời tròn chẳng nhiễm,

Độ hết muôn phương chốn hữu tình”

Khả năng tự học và trau dồi tốt, kết hợp với tài năng và đức độ của bản thân mà hòa thượng Thích Pháp Hòa đã có rất nhiều bước tiến lớn trên con đường phấn đấu, tu tập. Tới năm 2006, thầy đã chính thức được tấn phong làm trụ trì tại Trúc Lâm Thiền Viện (Tu viện Trúc Lâm Canada). Vào năm 2007, chỉ sau đó có 1 năm, thầy đã được giao trọng trách trụ trì Tây Phương Thiền Viện đồng thời được bầu làm Viện trưởng Viện nghiên cứu và điều tra Phật học Edmonton (Canada).

Con đường Phật Pháp của thầy Thích Pháp Hòa

Từ nhỏ, thầy Pháp Hòa đã thể hiện là một người có duyên với Phật Pháp. Trong một buổi thuyết giảng vào năm 2017 về chủ đề “Bốn loại ngã chấp” khi mở đầu thầy thầy đã chia sẻ câu chuyện về chính mình từ khi còn nhỏ. Đó là một ngày rằm tháng giêng năm thầy 7 tuổi, thầy được người lớn dẫn đi chùa.

Ngôi chùa đó là một ngôi tịnh xá nhỏ tên Ngọc Thuận ở Cần Thơ. Nhỏ tuổi chưa hiểu chuyện nhưng sau một hồi quan sát, thấy thấy ai đến chùa cũng được gọi bằng cái tên rất hay. Thấy vậy, thầy Pháp Hòa liền hỏi một vị sư già tại chùa “Sư ơi sư con cũng muốn có tên đẹp”. Lúc đó, vị sư già liền cười và nói “Con hãy quỳ xuống lạy Phật đi rồi sẽ quy y cho”. Thầy Pháp Hòa liền làm theo và hôm đó thầy đã chính thức được quy y, pháp danh là Huệ Tài.

Con đường Phật Pháp của thầy Thích Pháp Hòa đến từ rất sớm

Sau khi được làm lễ quy y Tam Bảo, thầy Pháp Hòa thỉnh cầu thêm một tâm nguyện với sư “Sư ơi, quy y rồi giờ muốn con muốn thờ Phật. Con muốn Phật Thích Ca, con muốn Phật Di Lặc, con muốn Phật A Di Đà, con muốn Quan Thế Âm Bồ Tát”. Thấy cậu bé còn nhỏ nhưng đã rất có duyên với nhà Phật nên đã tìm 4 hình Phật cho cậu và căn dặn mỗi tháng phải phát nguyện ăn chay 10 ngày. Pháp Hòa làm theo đúng lời dặn, nhờ mẹ lập bàn thờ Phật tại nhà để hàng đêm đọc kinh, cúng dường.

Năm 1989, khi đã đủ hạnh nguyên, thầy Pháp Hòa chính thức xuất gia tu hành dưới sự dìu dắt của thượng tọa Thích Thiện Tâm.

Năm 1994, khi tròn 20 tuổi, thầy Thích Pháp Hòa chính thức được thọ ký tỳ kheo tại làng Mai (Pháp) trong sự kiện Đài giới đàn Hương Tích của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Năm 1999, thầy Pháp Hòa được Thiền sư Thích Nhất Hạnh truyền đăng với bài kệ pháp: “Pháp đã trao lòng từ vàng thuở, hòa quang tiếp độ khắp quầng sân/Sen nở rạng ngời tròn chẳng nhiễm, độ hết muôn phương chốn hữu tình”

Năm 2006, thầy được tấn phong là trụ trì của Trúc Lâm Thiền Viện.

Năm 2007, thầy làm trụ trì của Tây Phương Thiền Viện và được bầu làm Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Edmonton (Canada).

Những bài giảng của thầy Thích Pháp Hòa rất bình dị, mang đậm bản sắc dân tộc. Điều đáng nói nhất đó chính là sở hành, sở nguyện nơi Thầy rất chân thành, thiết tha vì Tam Bảo mà phụng sự. Thầy thường tụng kinh Sám Hối, Chú Đại Bi,...nguyện đem công đức hướng về tất cả đệ tử và chúng sinh đều trọng thành trong Phật đạo.

Bài giảng của thầy Pháp Hòa rất dễ hiểu

Điển hình nhất là một lần nói về hạnh phúc, thầy đã kể câu chuyện rất gần gũi: “Một người đàn ông đứng trước Đức Phật hỏi rằng tôi muốn hạnh phúc thì phải làm thế nào. Đức thế tôn liền trả lời: ông muốn hạnh phúc cũng dễ, cùng được nhưng trước hết phải bỏ đi cái tôi, cái bản ngã. Tiếp đó là bỏ đi chữ “muốn” đó là tham. Vậy giờ chỉ còn 2 chữ hạnh phúc….” Qua câu chuyện ngắn, thầy Pháp Hòa đã tóm tắt ngắn gọn về lời dạy của Đức Phật về việc làm sao để bỏ được tham, sân, si, bỏ được sự giận dữ,...một cách giản dị, dễ hiểu.

Tính cách, phong thái của thầy Thích Pháp Hòa được thể hiện rõ qua những lần giảng pháp. Thầy luôn tâm niệm sẽ dàng một tâm lý phổ thân hòa lẫn đạo với đời để gần gũi chúng sinh muôn loài, dùng cuộc đời của mình như một cuốn kinh để truyền tải Phật pháp tới tất cả mọi người. Khi nghe giảng pháp, Phật tử không chỉ được tiếp thu nhiều tri thức Phật pháp mà còn học được hạnh xả thân như Bồ Tát, cách để chăm sóc những người bên cạnh.

Tiểu sử thầy Thích Pháp Hòa là ai? Cha mẹ thầy là ai?

Hòa thượng Thích Pháp Hòa sinh năm 1974, hiện chưa rõ thế danh cụ thể và ngày tháng sinh của thầy. Thầy sinh ra và lớn lên trong một gia đình cơ bản, có hai người con trai, trong đó thầy là con trưởng. Gia đình của thầy vốn sinh sống lâu đời tại thành phố Cần Thơ, trước khi gia đình gặp phải nhiều biến cố quan trọng.

Hòa thượng Thích Pháp Hòa đã bộc lộ do căn duyên đối với Phật pháp ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Năm thầy 7 tuổi, thầy đã được người lớn dẫn đi chùa lần đầu. Khi nhìn thấy kiến trúc bên trong ngôi chùa, cách mà các nhà sư hành lễ và sự trang nghiêm của những bức tượng Phật dường như đã đánh thức con người thực sự của thầy.

Khi nghe thấy các vị sư thầy gọi nhau bằng pháp danh, trong lòng hòa thượng Thích Pháp Hòa cũng muốn có một tên gọi như vậy. Do đó mà thầy đã mạnh dạn hỏi trực tiếp vị hòa thượng trụ trì để xin được đặt pháp danh. Vị trụ trì đó khuyên thầy nên quy y Tam bảo và thầy đã đồng ý. Đó chính là dấu mốc cho thấy hòa thượng đã có duyên với Phật pháp như thế nào khi còn thơ bé.