Khu du lịch sinh thái Thái Hải là khu bảo tồn theo dạng nhà sàn đậm nét văn hóa các đồng bào dân tộc Tày, Nùng tại tỉnh Thái Nguyên. Tại đây, các phong tục, tập quán sinh hoạt truyền thống được giữ gần như nguyên vẹn, trở thành điểm độc đáo, thu hút khách du lịch.
Khu du lịch sinh thái Thái Hải là khu bảo tồn theo dạng nhà sàn đậm nét văn hóa các đồng bào dân tộc Tày, Nùng tại tỉnh Thái Nguyên. Tại đây, các phong tục, tập quán sinh hoạt truyền thống được giữ gần như nguyên vẹn, trở thành điểm độc đáo, thu hút khách du lịch.
Làng sinh thái Thái Hải là một điểm đến đặc sắc trong chuyến khám phá Thái Nguyên. Chỉ cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 12km, tọa lạc tại xóm Mỹ Hào, xã Thịnh Đức, đến với Thái Hải du khách được tận mắt chiêm ngưỡng những nét đẹp, sự tinh tế, độc đáo mang đậm nét văn hóa của đồng bào dân tộc Tày, Nùng tỉnh Thái Nguyên và tận hưởng cuộc sống tại một ốc đảo xanh giữa lòng thành phố.
Với quy mô lên đến 25ha, tại đây có 30 ngôi nhà sàn với tuổi đời lên tới hàng trăm năm. Điều đặc biệt là các ngôi nhà sàn ở đây đều được chuyển từ khu ATK Định Hóa Thái Nguyên về và được phục dựng nguyên bản để giữ gìn và bảo tồn một cách tốt nhất.
Bao quanh khu vực nhà sàn là khung cảnh 4 bề đồi núi, người dân Tày, Nùng sống trong lòng chảo này thân thuộc như làng mình và cùng nha giữ được nét vắn hóa đậm bản sắc của dân tộc mình. Không gian xanh mướt và yên bình này bảo đảm sẽ làm hài lòng những ai muốn tìm về với cuộc sống yên bình đích thực.
Bạn có thể tới thăm khu du lịch này vào bất cứ lúc nào, đặc biệt là vào mùa hè. Địa hình núi cao, cây cối xanh tốt là địa điểm thích hợp để tránh nắng nóng và tận hưởng bầu không khí trong lành, tránh xa nắng nóng và khói bụi nơi phố thị.
Làng sinh thái Thái Hải (xóm Mỹ Hào, Thịnh Đức) là một ốc đảo nằm giữa hai thành phố lớn là Thái Nguyên và Sông Công. Bạn có thể lựa chọn đi một trong 2 hướng:
– Từ trung tâm thành phố Sông Công: Bạn di chuyển khoảng 10km cách Trại Ngựa Bá vân chừng 3km, một hướng rất tiện để tham quan luôn trại Ngựa.
– Từ trung tâm thành phố Thái Nguyên: Đi về hướng cầu vượt Đán —> đi qua CĐ Y Tế 1 đoạn thì rẽ trái —> đi vào đường Thịnh Đức thêm khoảng 4km —> rẽ trái là tới cổng chào của làng nhà sàn Thái Hải.
Khu bảo tồn làng nhà sàn du lịch sinh thái Thái Hải nằm giữa không gian hơn 70ha núi đồi và cỏ cây. Không chỉ là nơi bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể, kết hợp với bảo tồn thiên nhiên; đây cũng là nơi tái hiện lại những phong tục tập quán, nếp sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc Tày, Nùng tại huyện Định Hóa, Thái Nguyên.
Cảm giác đầu tiên khi đến khu du lịch Thái Hải là có thể chìm đắm trong thiên nhiên tươi xanh vào hòa mình vào cuộc sống của những con người mộc mạc trong sắc phục áo chàm và sống hồn hậu như cây cỏ.
Trên một diện tích rộng lớn khoảng 25 hecta, là không gian thiên nhiên tươi xanh, với núi đồi cỏ cây, hoa lá và hồ nước lớn, những con đường rợp bóng cây, không khí trong lành mát mẻ và thanh bình, hoàn toàn trái ngược với khói bụi thành phố.
Khu lưu trú của làng là các nhà sàn truyền thống biệt lập xen kẽ giữa những khu rừng bản địa, không gian thoáng mát, dễ chịu với đầy đủ các trang thiết bị, tiện nghi phục vụ cho 500 khách lưu trú. Làng nhà sàn được chia làm nhiều khu vực, gồm có Khu bảo tồn, khu ẩm thực, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí, tổ chức sự kiện…
Tại đây, mọi thứ dường như đều rất dung dị, mộc mạc. Những ngôi nhà sàn gỗ lợp mái lá, những vật dụng sinh họa cũng chủ yếu được làm từ các chất liệu tự nhiên như tre, nứa, gỗ, gốm, đất, lá cây…
30 ngôi nhà sàn ở đây cũng chính là nơi sinh sống của 30 gia đình nhiều thế hệ người dân tộc, chủ yếu là người Tày. Cũng chính họ, trong sắc áo chàm truyền thống, vừa chăn nuôi, trồng trọt, lao động, sản xuất, vừa tham gia phục vụ du khách đến tham quan, nghỉ ngơi, du lịch. Những người Tày thân thiện, luôn chào hỏi lịch sự nở nụ cười hiền hậu khi gặp du khách.
Dịch vụ ẩm thực được chú trọng phục vụ hơn 100 món ăn mang hương vị truyền thống của đồng bào dân tộc ở đây như khâu nhục, lợn quay nguyên con, thịt trâu nướng, thịt trâu xào mẻ, gà nướng mộc, canh gà nấu gừng mẻ, cá chép om mẻ, cá nướng than hoa, cá om măng chua, ốc xào măng chua, nộm hoa chuối rừng, xôi ngũ sắc…
Sức chứa của khu vực này lên đến 2000 người. Chỉ riêng nước uống, du khách có thể lựa chọn nước đóng chai đã qua xử lý và tiệt trùng, rượu nếp cái lên men truyền thống hay chè xanh được thu hoạch theo phương pháp truyền thống bản địa dân tộc Tày.
Nhiều nhóm khách là học sinh, sinh viên, gia đình, thậm chí doanh nghiệp lựa chọn hình thức du lịch trải nghiệm tại Thái Hải với nhiều hoạt động hấp dẫn như trồng rau, bắt sâu, chăm tưới, nấu ăn như những người dân bản địa. Trong sinh hoạt, họ không quên các hoạt động múa chày, chơi đàn tính, hát then… khiến du khách thích thú và chẳng muốn về.
Khu bảo tồn cũng có không gian ngoài trời tách biệt có diện tích từ 300 – 2.000m2 để tổ chức các chương trình, sự kiện trò chơi ngoài trời khác nhau; nhiều nhà sàn lớn có sẵn để tổ chức hội thảo, liên hoan riêng biệt có sức chứa khoảng 100 người…
Bất cứ một lúc nào đó muốn tránh xa cuộc sống xô bồ, muốn tìm về với những trải nghiệm dân dã, tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc và tận hưởng cuộc sống theo kiểu dân dã, thanh bình đừng bỏ qua cơ hội tới với làng nhà sàn đặc sắc này bạn nhé.
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống
Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.
Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.
Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.
Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.
Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.
Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.
Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.
Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.
Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...
Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...
Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.
Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.
Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.
Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.
Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.
(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).
Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống
Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.
Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.
Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.
Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.
Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.
Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.
Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.
Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.
Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...
Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...
Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.
Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.
Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.
Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.
Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.
(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)